Bài viết này giới thiệu cho anh chị về các loại lư hương qua từng thời kỳ ứng với từng thay đổi trong lịch sử Việt Nam.
1. Lư hương thời Lý.
Cao: 60cm
Niên đại: TK 17 – 18, triều Lê Trung Hưng, đời Vua Lê Ý Tông.
Đỉnh gồm mang thân và nắp. Nắp đỉnh, chỏm là 1 tượng nghê to ngậm ngọc. Nắp là nửa hình cầu được trổ thủng đề tài bát quái (càn- khôn – chấn – tốn – ly – khôn- đoài); thân đỉnh hình cầu tròn, miệng trang hoàng lá lật. Thân là hai mặt rồng hàm thọ và vân mây. Trên vai trang trí hồi văn chữ T, lá đề; hai quai là hai tượng rồng lớn gắn trên thân và miệng há ngậm ngọc chầu vào mồm đỉnh. Ba chân đế doãi là ba hổ phù và 3 mặt rồng hàm chữ Thọ. Minh văn khắc trên đỉnh cho biết đỉnh chế tác vào tháng 4 năm thứ 2 niên hiệu Vĩnh Hựu (1736).
2. Lư hương thời Minh.
Cuối thời nhà Nguyên đầu thời nhà Minh, ngành nghề đúc đồng vững mạnh chóng vánh và cực thịnh nhất vào thời Tuyên Đức, nhà Minh. Đồ song song Tuyên Đức được mọi người say mê vì vật liệu được tuyển lựa chu đáo, kiểu mẫu thuần tuý và tao nhã. đặc trưng, lò hương, đỉnh trẩm đồng được xem là tuyệt phẩm tiêu biểu của giai đoạn này.
Vào thời cổ đại, những ngôi đền thường sử dụng lò 3 chân chất liệu đồng, gang để đốt hương. một số lò hương (lò ba chân) kích cỡ hơi nhỏ được khiến bằng các chất liệu khác như : ngọc, đá, gốm sứ, gỗ, đồng. đến đời nhà Hán, lò hương bằng gốm, sứ, đồng, sắt, gạch bắt đầu xuất hiện. Sau chậm tiến độ, ngành nghề đúc đồng phát triển chóng vánh và phồn thịnh nhất vào thời đại vua Tuyên Đức nhà Minh. Trong thời kỳ này đã chế tác đa dạng tuyệt phẩm bằng đồng, đặc thù là lò hương, đỉnh trầm bằng đồng (lò hương ba chân với nắp) được xem là sản phẩm điển hình nhất của thời đại Tuyên Đức.
Lò hương thời Tuyên Đức, nhà Minh là mẫu lò 3 chân ko sở hữu nắp được dùng để đốt hương thờ cúng trong các ngôi đền, lăng tẩm hoặc tiêu dùng để đốt hương bái Phật, thờ phụng tổ sư trong các gia đình quyền thế. Còn loại lò 3 chân có nắp (còn gọi là đỉnh trầm hương) tiêu dùng để bỏ hương liệu thơm bên trong. Sau lúc đốt hương liệu, khói trong khoảng các lỗ nhỏ trên nắp bay ra với theo hương thơm nhẹ nhẹ làm cho tinh thần thanh tú. cái lò hương này thường được vua, quan lại, các tao nhân, nho sĩ để trong thư phòng và đốt hương thơm khi làm cho việc hoặc học bên án thư.
Hoàng đế Tuyên Đức nhà Minh rất thích chế tạo các tác phẩm nghệ thuật bằng đồng. để phục vụ được một chiếc lò hương đồng hay đỉnh trầm đồng tinh xảo, ngự tượng cung đình Lữ Chấn và công bộ đại lang Ngô Bang Tá dựa theo những mẫu trong cung đình cùng các tài liệu lịch sử như : “Tranh và tài liệu cổ vật thời vua Tuyên Hòa” , “Tranh khảo cổ” tinh lọc và vẽ thành các kiểu lò hương và đỉnh trầm khác nhau. những kiểu lò hương này sẽ được trình cho Hoàng đế Tuyên Đức xem chuẩn y và tiến hành đúc khi hoàng đế chấp thuận.
Hoàng đế Tuyên Đức đích thân giám sát phần đông thời kỳ đúc đồng. Để đảm bảo chất lượng của lò hương và đỉnh trầm, Ngài đã hạ lệnh tậu đồng đỏ trong khoảng cửa khẩu Xiêm La về để chế tác. bên cạnh đó, những nghệ nhân đã dùng mấy chục kim khí quý như : vàng, bạc….và trải qua mười mấy lần đúc luyện tinh xảo cộng đồng đỏ. rút cục, thành phẩm lò hương bằng đồng thu được mang màu pha lê tuyệt đẹp nhưng mà mềm mại. Đây đích thực là tuyệt phẩm qúy thi thoảng của thời nhà Minh.
rộng rãi tài liệu biên chép cho thấy : Chất liệu đồng của lò Tuyên Đức được chọn lọc rất nghiêm ngặt. giai đoạn đúc tạo đồng cũng rất tinh xảo vì phải trải qua trong khoảng 6-12 lần luyện kim. bởi thế, những thành phẩm đồng của lò Tuyên Đức trở thành tuyệt phẩm thi thoảng mang. những lò hương này sau lúc đúc thành đã được đựng giữ trong cung. bởi thế, người dân chỉ nghe biết tên chứ chưa thấy được hình dáng của nó ra sao.
Ông H.H.M – chuyên sưu tầm cổ vật trên 30 năm kinh nghiệm cho biết : Đồ đồng đồng cổ thời Tuyên Đức đặc thù trở thành quý thảng hoặc vì là đồ đồng trước nhất được đúc bằng vàng thau. không những thế, trữ lượng vàng được pha trộn trong đồng cao hơn các trữ lượng hợp kim khác. vì vậy, đồ đồng cổ thời Tuyên Đức niên đại càng cao sẽ chuyển sang màu vàng da cua. những mẫu nguyên bản bằng đồng được chế tác dưới thời Tuyên Đức tinh xảo, ngoài mặt đơn giản, thanh nhã. đặc trưng, những lò hương bằng đồng được xem là sản phẩm tiêu biểu, độc đáo của thời Tuyên Đức. ngừng thi côngĐây cũng chính là lý do những đồ đồng nguyên bản thời Tuyên Đức luôn được mọi người ưa chuộng và được các triều đại khác phiên bản lại.
Thời Tuyên Đức đã đúc được tổng cùng khoảng 300.000 lò hương bằng đồng đỏ trong vòng 3 năm và sau này ko đúc thêm nữa. Lò Tuyên Đức đã trở nên tên gọi quen thuộc cho những lò hương bằng đồng và đã khơi nguồn cho những lò đúc đồng sau này. Trải qua mấy trăm năm thăng trầm lịch sử, đồ đồng Tuyên Đức, trở nên quý thi thoảng và luôn được mọi người ham mê vì chất lượng và kiều dáng tinh xảo của nó.
Minh Tuyên Tông tên thật là Chu Chiêm Cơ, niên hiệu Tuyên Đức, con trai của vua Minh Nhân Tông (tức Hồng Hi Đế). Ông sinh ngày 25.02.1398 và mất ngày 31.01.1435, là vị vua thứ năm của triều đại nhà Minh, Trung Quốc. Ông trị vì được 10 năm (từ 1425 – 1435). Thời đại ông là 1 trong các thời đại cực phồn thịnh nhất của nhà Minh.
Bản thân của Hoàng đế Tuyên Đức là người yêu thích thi phú và văn học. Ông đã quyết định chọn Bắc Kinh là đế đô của đất nước Trung Hoa.
nguồn: https://www.facebook.com/DoCoSaiGon/posts/1681489768732415
3. Lư hương thời nhà Lê.
Bộ sưu tập lư hương cổ kể trên bao gồm 5 loại, 2 loại được làm bằng chất liệu gốm sứ, hai dòng bằng chất liệu gỗ quý sơn son thếp vàng và 1 cái mõ cổ có trang trí hoa văn hình mặt người.
Chiếc lư hình trụ tròn bằng sứ, cao 50cm, đường kính miệng 30cm, trọng lượng hơn 5kg. Mặt ngoài có tráng lớp men màu cốm, đối xứng hai bên được trang trí nhiều hoa văn, họa tiết cân đối, đẹp mắt. Phía trên cùng có biểu tượng hình 2 con chim phượng đang hướng đầu vào vòng tròn, bao quanh là những ngọn lửa, chính giữa tâm có khắc nổi chữ Thọ. Phía dưới có lạc khoản với 4 chữ “Thánh Cung Vạn Tuế”.
nguồn: http://www.sggp.org.vn/phat-hien-lu-huong-co-thoi-nha-le-109013.html
MỌI THÔNG TIN LIÊN HỆ:
CƠ SỞ SẢN XUẤT GỐM SỨ LỢI AN
79 Giang Cao Bát Tràng Gia Lâm Hà Nội
0888376543