Theo Đại Việt sử ký toàn thư và Dư địa chí của Nguyễn Trãi, làng gốm Bát Tràng được hình thành từ thời Lý. khi Vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, 5 dòng họ khiến nghề gốm lừng danh của làng bồ Bát, thị xã yên ổn Mô, phủ Trường im (nay thuộc quận yên ổn Mô, tỉnh giấc Ninh Bình) là è cổ , Vương, Nguyễn, Lê, Phạm đã quyết định đưa các nghệ nhân làm cho gốm và gia đình dời làng thiên cư về đế đô Thăng Long mua đất lập nghiệp. tới Bạch Thổ phố thuộc huyện Gia Lâm, phủ Thuận An (nay là thị trấn Bát Tràng, quận Gia Lâm, Hà Nội) – nơi sở hữu nguồn nguyên liệu sản xuất gốm sứ bát tràng là đất sét trắng
5 dòng họ đã hài hòa với dòng tộc Nguyễn ở đây mở lò cung cấp gốm, lập nên làng gốm Bát Tràng. Theo ký ức và tục lệ dân gian thì trong số các dòng tộc ở Bát Tràng, sở hữu dòng tộc Nguyễn Ninh Tràng. sở hữu quan điểm cho rằng Nguyễn Ninh Tràng là họ Nguyễn ở trường Vĩnh Ninh, một lò gốm ở Ninh Bình, nhưng chưa với tư liệu công nhận . tộc phả 1 số dòng tộc ở Bát Tràng như họ Lê, Vương, Phạm, Nguyễn… Ghi nhận rằng tiên sư cha xưa trong khoảng người yêu Bát di cư ra đây (Bồ Bát là người tình Xuyên và Bạch Bát). Vào thời Hậu Lê khoảng cuối thế kỉ thứ 14 – đầu thế kỉ 15 và đầu thời Nguyễn, xã người tình Xuyên và trang Bạch Bát thuộc tổng Bạch Bát, thị xã yên Mô, phủ Trường im, trấn Thanh Hoá Ngoại. hiện nay , ý trung nhân Xuyên và Bạch Bát là hai thôn của xã yên ổn Thành, huyện yên ổn Mô, tỉnh giấc Ninh Bình, vùng này sở hữu mẫu đất sét trắng rất phù hợp sở hữunghề khiến cho gốm. Theo truyền thuyết và tộc phả 1 số họ như họ Vũ ở nhân tình Xuyên, ngày xưa cư dân người yêu Bát chuyên làm nghề gốm từ lâu đời. Điều này được xác nhận qua vết tích của những lớp đất nung và mảnh gốm ken dày đặc tìm thấy đa dạng nơi ở vùng này.
Năm 1010, vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long, Thăng Long trở thành trung tâm chính trị của nước Đại Việt. Do nhu cầu vững mạnh của đế đô , rộng rãi doanh gia , thợ thủ công từ các nơi mua về Thăng Long hành nghề và lập nghiệp. Sự ra đời và tăng trưởng của Thăng Long đã ảnh hưởng mạnh tới hoạt động kinh tế của những làng quanh đó , trong Đó với làng Bát Tràng. đặc thù vùng này lại sở hữu phổ quát đất sét trắng, một nguồn vật liệu thấp để cung cấp đồ gốm. 1 số thợ gốm tình nhân Bát đã thiên cư ra đây cộng họ Nguyễn Ninh Tràng lập lò gốm, gọi là Bạch Thổ xã (phường Đất Trắng). các đợt di trú tiếp theo đã biến Bát Tràng trong khoảng 1 làng gốm thông thường đã trở nên 1 trọng điểm gốm lừng danh được triều đình chọn phân phối đồ cống phẩm cho nhà Minh.
Cũng ở thời nhà Lý, mang ba vị Thái học trò là hứa hẹn Vinh Kiều (hay Cảo), Đào Trí Tiến và Lưu Phương Tú (hay Lưu Vĩnh Phong) được cử đi sứ Bắc Tống. Sau khi hoàn tất sứ mệnh , trên đường trở về nước qua Thiều Châu (Quảng Đông) (hiện nay tại Triều Châu, thức giấc Quảng Đông, Trung Quốc) gặp bão, phải nghỉ lại. Ở đây mang lò gốm nổi tiếng , ba ông đến thăm và học được một số công nghệ đem về truyền bá cho những làng nghề gốm Việt Nam. hứa hẹn Vĩnh Kiều truyền cho Bát Tràng nước men rạn trắng. Đào Trí Tiến truyền cho Thổ Hà (huyện Việt yên ổn , tỉnh giấc Bắc Giang) nước men sắc màu vàng đỏ. Lưu Phương Tú truyền cho Phù Lãng (huyện Quế Võ, thức giấc Bắc Ninh) nước men màu đỏ màu vàng thẫm.
1. THẾ KỈ 15–16
Chính sách của nhà Mạc đối mang công thương chỉ cần khoảng này là cởi mở, không chủ trương “ức thương” như trước nên kinh tế hàng hoá sở hữu điều kiện vững mạnh dễ dàng hơn; nhờ Đó , sản phẩm gốm Bát Tràng được lưu thông phổ thông . Gốm Bát Tràng thời Mạc có phổ biến sản phẩm mang minh văn ghi rõ năm chế tác, tên người đặt hàng và người cung cấp . Qua các minh văn này cho thấy người đặt hàng bao gồm cả một số quan chức cao cấp và quý tộc nhà Mạc như công chúa Phúc Tràng, phò mã Ngạn quận công, Đà quốc công Mạc Ngọc Liễn, Mĩ quốc công cu li nhân… Người đặt hàng trải ra trên 1 không gian rộng to bao gồm đa dạng phủ thị xã vùng đồng bằng Bắc Bộ và bắc Trung Bộ.
2. THẾ KỈ 16–17
Sau các phát kiến địa lý cuối thế kỉ 15, phổ thông nước lớn mạnh của Tây Âu tràn sang phương Đông. những nước người tình Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp… thành lập tổ chức , vun đắp căn cứ ở phương Đông để buôn bán. Hoạt động mậu dịch hàng hải khu vực Đông Nam Á vốn mang lịch sử lâu đời càng phát triển thành nở rộ , lôi cuốn những nước trong khu vực vào hệ thống buôn bán châu Á và sở hữu thị phần thế giới đang hình thành.
Sau khi thành lập, nhà Minh (Trung Quốc) chủ trương cấm tư nhân buôn bán sở hữu nước ngoài làm việc xuất khẩu gốm sứ nức danh của Trung Quốc bị giảm thiểu đã giúp cho đồ gốm Bát Tràng mở mang thị phần ở vùng Đông Nam Á. lúc nhà Minh (Trung Quốc) bãi bỏ chính sách bế quan toả cảng (1567) nhưng vẫn cấm xuất khẩu 1 số nguyên liệu và mặt hàng quan trọng sang Nhật Bản, đã tạo cho quan hệ kinh doanh giữa Việt Nam và Nhật Bản đặc biệt tăng trưởng , qua Đó phổ biến đồ gốm Bát Tràng được nhập khẩu vào Nhật Bản.
Năm 1644 nhà Thanh (Trung Quốc) tái lập lại chính sách cấm vượt biển buôn bán có nước ngoài, cho tới năm 1684 sau khi phóng thích Đài Loan. chỉ cần khoảng chậm tiến độ , một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, trong chậm triển khai với đồ gốm Bát Tràng không bị hàng Trung Quốc khó khăn nên lại có điều kiện vững mạnh mạnh.
Thế kỉ 15–17 là công đoạn lớn mạnh mạnh mẽ của ngành sản xuất gốm xuất khẩu Việt Nam, trong chậm triển khai ở phía bắc sở hữu hai trọng tâm quan trọngvà nổi tiếng là Bát Tràng và Chu Đậu-Mỹ Xá (các xã Minh Tân, Thái Tân, huyện Nam Sách, thức giấc Hải Dương). khi bấy giờ, Thăng Long (Hà Nội) và thị trấn Hiến (nay thuộc tỉnh Hưng im) là 2 tỉnh thành lớn nhất và cũng là hại trung tâm mậu dịch đối ngoại thịnh đạt nhất của Đàng Ngoài. Bát Tràng sở hữu may mắn và thuận tiện lớn là nằm bên bờ sông Nhị (sông Hồng) ở khoảng giữa Thăng Long và thị trấn Hiến, trên đường thuỷ nối liền 2 đô thị này và là cửa ngõ thông thương có thế giới bên ngoài. Qua thuyền buôn Trung Quốc, Nhật Bản, những nước Đông Nam Á và các nước phương Tây, đồ gốm Việt Nam được bán sang Nhật Bản và rộng rãi nước Đông Nam Á, Nam Á.
các doanh nghiệp phương Tây, nhất là công ty Đông Ấn của Hà Lan, trong phương thức kinh doanh “từ Ấn Độ (phương Đông) sang Ấn Độ”, đã tậu phổ thông đồ gốm Việt Nam bán sang thị trường Đông Nam Á và Nhật Bản.
3. CUỐI THẾ KỈ 17 ĐẦU THẾ KỈ 18
Việc xuất khẩu và buôn bán đồ gốm Việt Nam ở Đông Nam Á bị sút giảm nhanh chóng vì sau khi Đài Loan được phóng thích (1684) và triều Thanh bãi bỏ chính sách cấm vượt biển kinh doanh mang nước ngoài. từ Đó , gốm sứ chất lượng cao của Trung Quốc tràn xuống thị phần Đông Nam Á và đồ gốm Việt Nam không đủ sức cạnh tranh. Nhật Bản, sau 1 thời kì đóng cửa để kiểm soát an ninh những nguyên liệu quý như bạc, đồng, đã đẩy mạnh được sự vững mạnh các đơn vị quản lý kinh tế trong nước như tơ lụa, đường , gốm sứ… mà trước đây phải tậu sản phẩm của nước ngoài.
4. THẾ KỈ 18–19
1 số nước phương Tây đi vào cuộc cách mệnh công nghiệp với những hàng hoá mới cần thị phần tiêu thụ rộng lớn . Tình hình kinh tế chậm tiến độ cùng với chính sách tránh ngoại thương của các chính quyền Trịnh, Nguyễn trong thế kỉ 18 và của nhà Nguyễn trong thế kỉ 19đã khiến quan hệ mậu dịch đối ngoại của Việt Nam sa sút và việc xuất khẩu đồ gốm cũng bị suy giảm. chậm triển khai là lý do khiến cho một số làng nghề gốm bị gián đoạncung ứng (như làng gốm Chu Đậu-Mỹ Xá). Gốm Bát Tràng tuy có bị tác động, nhưng vẫn giữ được sinh khí dai sức nhờ có 1 thị trường tiêu thụ phổ biến trong nước với những đồ gia dụng, đồ thờ, đồ trang trí và gạch xây rất thiết yếu cho mọi phân khúc thị trấn hội trong khoảng quý tộc đến dân thường. Trong thời kỳ này, gốm Bát Tràng xuất khẩu giảm sút , nhưng làng gốm Bát Tràng vẫn là 1 trung tâm cung cấp gốm truyền thống mang tiếng trong nước.
5. THẾ KỈ 19 tới bây giờ
- Trong thời Pháp thuộc, những lò gốm Bát Tràng tuy bị một số xí nghiệp gốm sứ và hàng ngoại nhập khó khăn nhưng vẫn duy trì được hoạt động bình thường.
- Sau Chiến tranh Đông Dương (1945–1954), năm 1957, 10 cá nhân là địa chủ, con địa chủ của thôn Giang Cao (sau canh tân ruộng rẫy năm 1955) góp vốn thành lập doanh nghiệp gốm Trường cường thịnh, để phân phối gốm sứ dân dụng phục vụ xã hội, đây là nền tảng bắt đầu cho Xí nghiệp sứ Bát Tràng. Năm 1958 nhà nước làm mướn tư hợp doanh, chuyển đổi tổ chức gốm Trường thịnh thành Xí nghiệp sứ Bát Tràng, thuê người lao động thôn Bát Tràng vào khiến cho việc. có cơ sở vật chất toàn bộ , nhân công Bát Tràng được thể nghiệm, thực hiện , sáng tạo trên cơ sở vật chất sự chịu khó , chuyên cần đã tạo nên được một thế hệ mang tay nghề gốm vững chãi. đồng thời Đó một số hiệp tác thị trấn như Hợp Thành (1962), đóng ở phần đất sắp có xã Đa Tốn, Hưng Hà (1977), hợp lực (1978), thống nhất (1982), Ánh Hồng (1984) và liên hợp ngành gốm sứ (1984)Xí nghiệp X51, X54 (1988)… các cơ sở vật chất cung cấp trên cung ứng hàng dùng trong nước, 1 số hàng mĩ nghệ và một số hàng xuất khẩu. những nghệ nhân lừng danh như của Bát Tràng như Đào Văn Can, Nguyễn Văn Khiếu, Lê Văn Vấn, Lê Văn Cam… huấn luyện được nhiều thợ gốm trẻ cung ứng cho các lò gốm mới mở ở những tỉnh giấc . Sau năm 1986 làng gốm Bát Tràng sở hữu sự chuyển biến lớn theo hướng kinh tế thị phần . các cộng tác xã lần lượt giải tán hoặc chuyển thành tổ chức cổ phần, các tổ chức to được thành lập nhưng vẫn còn còn đó đa dạng tổ cung cấp và phổ thông là các công ty cung ứng nhỏ theo hộ gia đình. phường Bát Tràng nay đã trở nên một trọng điểm gốm to. hiện tại , sản phẩm gốm Bát Tràng càng ngày càng phong phú và phổ thông. Ngoài các mặt hàng truyền thống, những lò gốm Bát Tràng còn sản xuất đa dạng sản phẩm mới đáp ứng đề xuất sử dụng trong Việt Nam như các dòng ấm chén, bát đĩa, lọ hoa… Kiểu mới, những nguyên liệu xây dựng , các cái sứ cách điện… Và các sản phẩm xuất khẩu theo đơn đặt hàng của nước ngoài. Sản phẩm Bát Tràng xây dựng thương hiệu cả nước và được xuất khẩu sang phổ biến nước châu Á, châu Âu. Bát Tràng cuốn hút nhiều nhân công trong khoảng khắp nơi về sáng tác bề ngoài mới và cải tiến kỹ thuật cung cấp . 1 số nghệ nhân đã bước đầu thành công trong việc khôi phục 1 số đồ gốm cựu truyền với những mẫu mã và nước men đặc sắc thời Lý, trần, Lê, Mạc…